Dự thảo Thông tư quy định về xác định chỉ tiêu tuyển sinh Giáo dục đại Học và chỉ tiêu tuyển sinh cao đẳng ngành Giáo Dục mầm non của Bộ Giáo dục và Đào tạo hiện đang nhận được nhiều sự quan tâm của dư luận và xã hội.
Theo đó, tại Khoản 3, Điều 4 Dự thảo Thông tư nêu rõ, chỉ tiêu tuyển sinh của một ngành, nhóm ngành trình độ đại học, ngành chuyên sâu đặc thù trình độ 7 tại trụ sở chính và phân hiệu không được tăng so với chỉ tiêu và số thực tuyển của năm trước liền kề trong các trường hợp: tỷ lệ thôi học năm đầu cao hơn 15%; tỷ lệ người tốt nghiệp có Việc làm thấp hơn 70%.
Hiện nay, nhiều trường công bố tỷ lệ Sinh viên có việc làm sau 1 năm tốt nghiệp dao động từ 85-95%, thậm chí nhiều ngành, nhiều trường tỷ lệ này lên tới 100%. Tuy nhiên, con số này thường chỉ dựa trên số sinh viên phản hồi phiếu khảo sát chứ không phải tổng số sinh viên tốt nghiệp. Theo ý kiến của các đại biểu Quốc hội, số liệu này đã tạo ra sai số không nhỏ trong bức tranh toàn cảnh về việc làm của sinh viên sau khi tốt nghiệp.
Số liệu thống kê của các trường đại học chưa thực sự đáng tin cậy
Trao đổi với phóng viên Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam, Đại biểu Quốc hội Trịnh Thị Tú Anh (Đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh Lâm Đồng) cho biết, nhìn chung, dữ liệu được cơ sở giáo dục đại học công bố về tỷ lệ sinh viên có việc làm sau 1 năm ra trường trên 90% hay thậm chí 100% chưa phản ánh đầy đủ và chính xác thực tế.
Theo nữ đại biểu, hiện nay, hầu hết các trường đại học chỉ dựa vào kết quả khảo sát từ những sinh viên có phản hồi, thường chiếm khoảng 50-70% tổng số sinh viên tốt nghiệp. Điều này có thể tạo ra một bức tranh thiên lệch, bởi những sinh viên chưa có việc làm ổn định hoặc làm trái ngành có xu hướng không tham gia khảo sát. Hệ quả là các số liệu được công bố khó phản ánh chính xác và toàn diện tình hình việc làm của sinh viên sau khi tốt nghiệp, ảnh hưởng đến độ tin cậy của thông tin mà các trường cung cấp.
Mặc dù những con số này được sử dụng làm cơ sở để xây dựng chỉ tiêu tuyển sinh cho các năm tiếp theo, nhằm gắn kết giáo dục với nhu cầu xã hội, nhưng phương pháp đánh giá cần phải đảm bảo tính khách quan và toàn diện hơn. Việc phụ thuộc vào các số liệu chưa đầy đủ và thiếu chính xác có thể dẫn đến tình trạng tuyển sinh vượt quá nhu cầu thực tế, gây lãng phí nguồn lực đào tạo, đồng thời làm giảm hiệu quả trong việc đáp ứng yêu cầu của thị trường lao động.
Bên cạnh đó, Đại biểu Quốc hội Trịnh Thị Tú Anh nhận định rằng việc yêu cầu các trường công bố tỷ lệ sinh viên tốt nghiệp có “việc làm phù hợp với trình độ đào tạo” như dự thảo là một bước đi cần thiết để nâng cao chất lượng giáo dục và đáp ứng kỳ vọng của xã hội. Tuy nhiên, Đại biểu Quốc hội Tú Anh nhấn mạnh rằng để đảm bảo tính minh bạch và chính xác, cần phải cụ thể hóa khái niệm “có việc làm” và “việc làm phù hợp với trình độ đào tạo”.
Theo đó, “có việc làm” nên được hiểu là công việc có hợp đồng chính thức hoặc tự kinh doanh với thu nhập ổn định, kéo dài ít nhất 6 tháng trong vòng 12 tháng sau khi tốt nghiệp. Đồng thời, “việc làm phù hợp với trình độ đào tạo” nên được định nghĩa là công việc sử dụng kiến thức, kỹ năng đã học, yêu cầu bằng cấp hoặc trình độ tương ứng với chuyên ngành đào tạo.
Các trường có thể phân loại mức độ phù hợp theo các tiêu chí sau: hoàn toàn phù hợp (liên quan trực tiếp đến chuyên ngành), phù hợp một phần (có liên quan nhưng không yêu cầu hoàn toàn kiến thức chuyên ngành) và không phù hợp. Điều này giúp phản ánh đúng thực trạng và định hướng chính xác cho các chương trình đào tạo.
Cùng nêu quan điểm về vấn đề này, Đại biểu Quốc hội Nguyễn Thị Việt Nga (Đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh Hải Dương) nhận định, những con số thống kê về tỷ lệ sinh viên tốt nghiệp có việc làm sau 1 năm ra trường do cơ sở giáo dục đại học công bố chưa thực sự đáng tin cậy vì một số lý do chính như:
Thứ nhất, các con số như 80%, 90% hay thậm chí 100% sinh viên tốt nghiệp có việc làm thường chỉ được đưa ra một cách chung chung, thiếu thông tin chi tiết về cách thức, đối tượng tham gia và thời điểm thực hiện khảo sát.
Thứ hai, khái niệm “có việc làm” cũng chưa được định nghĩa rõ ràng. Việc làm ở đây là đúng chuyên ngành đào tạo hay chỉ đơn giản là bất kỳ công việc nào? Thực tế, nhiều sinh viên sau khi ra trường làm việc trái ngành hoặc công việc bán thời gian vẫn có thể được tính vào tỷ lệ này.
Với những thông tin chưa đầy đủ và rõ ràng, các số liệu này chưa thể hiện được uy tín đào tạo của nhà trường, cũng như không phản ánh được đúng chất lượng đào tạo hay mức độ phù hợp giữa ngành học và thị trường lao động.
Do đó, theo bà Nga, trước khi tập trung vào việc thống kê tỷ lệ sinh viên tốt nghiệp có việc làm sau 1 năm ra trường, các cơ sở giáo dục đại học nên ưu tiên nâng cao chất lượng đào tạo và bám sát nhu cầu của thị trường lao động. Việc thống kê thực tế không phải là một nhiệm vụ khó khăn, đặc biệt trong bối cảnh hiện nay khi chúng ta đã và đang triển khai cơ sở dữ liệu quốc gia và thúc đẩy số hóa trên mọi lĩnh vực.
Với hệ thống dữ liệu dùng chung và các công cụ hiện đại, việc liên lạc với sinh viên và thu thập thông tin chính xác hoàn toàn khả thi. Bởi lẽ trong thời đại công nghệ hiện nay, việc thực hiện một khảo sát minh bạch, chính xác là yếu tố cần thiết để đảm bảo chất lượng và uy tín của giáo dục đại học.
Còn theo quan điểm của ông Lê Như Tiến – nguyên Phó Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa, Giáo dục, Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng (nay là Ủy ban Văn hóa, Giáo dục) của Quốc hội, hiện đang có hai vấn đề cần quan tâm.
Trước hết, tính chính xác và minh bạch trong số liệu tỷ lệ sinh viên có việc làm mà các trường công bố là yếu tố vô cùng quan trọng. Để có thể đánh giá đúng mức độ thành công của một chương trình đào tạo, các số liệu này cần được thu thập từ một cơ sở dữ liệu đầy đủ và khách quan. Tuy nhiên, hiện nay đâu đó vẫn còn trường công bố tỷ lệ sinh viên có việc làm mà thiếu minh bạch trong cách thức thu thập thông tin, thiếu sự xác minh độc lập.
Đồng thời, việc đánh giá việc làm có thực sự phù hợp với chuyên ngành đào tạo hay không lại là một vấn đề khác. Cần phân biệt rõ giữa việc làm có tính ổn định, thu nhập hợp lý và phù hợp chuyên ngành đào tạo với những việc làm trái ngành, trái nghề, bán thời gian.
Cần xem xét giao cho một đơn vị độc lập thực hiện khảo sát
Vì vậy, ông Lê Như Tiến cho rằng, nếu chỉ để các trường tự thống kê, tự thiết lập phương pháp và tự báo cáo mà không có sự giám sát, kết quả thống kê sẽ không đảm bảo tính khách quan. Do đó, việc thống kê số lượng sinh viên có việc làm sau 1 năm ra trường nên được giao cho một tổ chức độc lập để đảm bảo tính minh bạch và chính xác.
“Trong trường hợp chưa thể giao việc này cho một đơn vị độc lập khảo sát, các cơ sở giáo dục đại học cần phải thực hiện và công bố một cách rõ ràng về chất lượng sinh viên sau khi tốt nghiệp cũng như tỷ lệ sinh viên có việc làm sau 1 năm ra trường. Điều này không chỉ đảm bảo tính minh bạch mà còn giúp đề ra các giải pháp cải thiện chất lượng đào tạo, tăng cường sự gắn kết giữa chương trình giảng Dạy và nhu cầu của thị trường lao động.
Đồng thời, các trường đại học phải chịu trách nhiệm trong việc cung cấp thông tin chính xác và minh bạch về tình hình việc làm của sinh viên. Có thể các trường sẽ có xu hướng làm cho số liệu trở nên hấp dẫn hơn nhưng chỉ khi có sự giám sát và kiểm tra độc lập từ các cơ quan có thẩm quyền, chúng ta mới có được cái nhìn chính xác và toàn diện về thực trạng việc làm của sinh viên”, ông Lê Như Tiến cho hay.
Ngoài ra, theo Đại biểu Quốc hội Trịnh Thị Tú Anh, việc giao cho một đơn vị độc lập thực hiện khảo sát tỷ lệ sinh viên có việc làm sau một năm ra trường là hoàn toàn hợp lý. Điều này giúp giảm thiểu xung đột lợi ích vì các trường đại học có thể có xu hướng công bố tỷ lệ cao để thu hút Thí sinh, một đơn vị khảo sát độc lập có thể đảm bảo tính khách quan và trung thực trong việc thu thập và phân tích dữ liệu.
Đơn vị này có thể thiết lập các tiêu chuẩn rõ ràng trong quá trình khảo sát, giúp tạo lòng tin cho thí sinh và phụ huynh khi lựa chọn ngành học, đồng thời phản ánh chính xác tình hình việc làm của sinh viên, từ đó đưa ra các quyết định chính xác về việc tuyển sinh và phát triển chương trình đào tạo phù hợp với nhu cầu thị trường lao động.
Đồng thời, bà Trịnh Thị Tú Anh cho biết, để thu thập dữ liệu từ sinh viên đạt yêu cầu của Thông tư 09/2024/TT-BGDĐT quy định về công khai trong hoạt động của các cơ sở giáo dục thuộc hệ thống giáo dục quốc dân, các trường đại học có thể áp dụng một số giải pháp sau đây:
Thứ nhất, các trường đại học nên xây dựng nền tảng khảo sát chuyên dụng. Một nền tảng khảo sát trực tuyến tích hợp cơ sở dữ liệu sẽ giúp sinh viên dễ dàng cập nhật tình trạng việc làm và mức độ phù hợp với chuyên ngành. Việc liên kết với tài khoản sinh viên hoặc sử dụng mã định danh sẽ đảm bảo tính chính xác và khuyến khích sinh viên tham gia phản hồi đầy đủ.
Thứ hai, các trường có thể xem xét hợp tác với bên thứ ba để xác minh dữ liệu một cách khách quan và minh bạch hơn. Việc ký kết với các tổ chức khảo sát lao động hoặc doanh nghiệp tuyển dụng sẽ giúp xác minh tình trạng việc làm thực tế của sinh viên, đảm bảo rằng số liệu thống kê phản ánh đúng thực trạng.
Ngoài ra, có thể triển khai hệ thống tự động kết nối và cập nhật thông tin việc làm của sinh viên thông qua các nền tảng trực tuyến về việc làm hoặc các ứng dụng quản lý cựu sinh viên. Cách làm này không chỉ giảm thiểu gánh nặng về nhân lực mà còn mang lại nguồn dữ liệu được cập nhật liên tục, chính xác và dễ dàng phân tích.
Thứ ba, các trường đại học cần thực hiện khảo sát theo từng giai đoạn để có cái nhìn toàn diện hơn về tình trạng việc làm của sinh viên sau tốt nghiệp. Thay vì chỉ tiến hành khảo sát 1 lần/năm, các trường nên tổ chức khảo sát định kỳ sau 3 tháng, 6 tháng và 12 tháng để theo dõi sự ổn định và phát triển nghề nghiệp của sinh viên. Việc theo dõi dài hạn không chỉ giúp nhận diện các xu hướng liên quan đến thị trường lao động mà còn cung cấp dữ liệu giá trị về mức độ phù hợp giữa chương trình đào tạo và nhu cầu thực tế.
Với cách tiếp cận chi tiết và khách quan này, các cơ sở giáo dục đại học sẽ có thể báo cáo chính xác tỷ lệ việc làm phù hợp và đồng thời hỗ trợ sinh viên có định hướng nghề nghiệp tốt hơn sau khi tốt nghiệp.
Bên cạnh đó, bà Trịnh Thị Tú Anh nhận định rằng, hiện nay, việc thiếu một chuẩn mực thống nhất về mẫu khảo sát, phương pháp tính và tiêu chí phân loại khiến mỗi trường tự lựa chọn cách tính riêng dễ dẫn đến sự chênh lệch lớn trong tỷ lệ việc làm được công bố, gây khó khăn trong việc so sánh và đánh giá chính xác giữa các trường. Đồng thời, sự thiếu tiêu chuẩn này không chỉ ảnh hưởng đến tính minh bạch mà còn làm giảm mức độ tin cậy của thông tin mà các trường cung cấp cho thí sinh và phụ huynh.
Vì vậy, Bộ Giáo dục và Đào tạo nên ban hành thêm các quy định và hướng dẫn cụ thể về phương pháp tính tỷ lệ sinh viên có việc làm sau khi tốt nghiệp. Điều này sẽ giúp đảm bảo sự thống nhất, minh bạch trong quá trình khảo sát, từ đó cung cấp thông tin chính xác về tình trạng việc làm của sinh viên sau 1 năm ra trường, tạo cơ sở dữ liệu đáng tin cậy cho thí sinh, phụ huynh và các nhà hoạch định chính sách.
Thúy Hiền